Lịch sử hoạt động Focke-Wulf_Fw_190

Chiếc Fw 190D-9 Langnasen-Dora

Trong những tháng đầu tiên mà chiếc Fw 190 được đưa ra hoạt động, phe Đồng Minh, vốn hoàn toàn không biết gì về chiếc máy bay tiêm kích mới, đã cho rằng các báo cáo của phi công về một "kiểu máy bay tiêm kích động cơ bố trí hình tròn mới" là những chiếc Curtiss P-36 Mohawk chiếm được của Pháp. Chiếc máy bay tiêm kích mới vượt trội hơn chiếc Spitfire Mk. V vốn đang hoạt động cùng Không quân Hoàng gia Anh trong mọi chỉ số ngoại trừ bán kính lượn vòng. Do số lượng máy bay tiêm kích Đồng Minh bị tổn thất ngày càng tăng cao và ưu thế trên không tại chỗ bên trên Eo biển Anh Quốc chuyển sang phía Không quân Đức, phe Đồng Minh đã dự định tổ chức một kế hoạch tấn công biệt kích vào một sân bay Đức nhằm bắt cóc một chiếc Fw 190 để đánh giá. Tuy nhiên, người Anh đã sở hữu được một chiếc Fw 190 A-3 nguyên vẹn vào tháng 6 năm 1942, khi Trung úy phi công Armin Faber thuộc Không đoàn 2 Đức đã hạ cánh xuống một sân bay Anh do nhầm lẫn.[27] Tận dụng cơ hội này, Không quân Hoàng gia Anh nhanh chóng nghiên cứu chiếc máy bay để tìm ra các yếu tố thiết kế mới lạ.[28] Đặc biệt, hệ thống làm mát và phương cách gắn động cơ bố trí hình tròn của chiếc Fw 190 đã có ảnh hưởng trực tiếp lên kiểu máy bay Hawker Siddeley Tempest II. Người Anh đã xác định được chiếc Fw 190 có tính năng bay vượt trội, trên đa số các mặt, so với chiếc máy bay tiêm kích hàng đầu Spitfire Mk V. Trên khía cạnh hỏa lực trang bị, tốc độ lộn vòng và tốc độ bay ngang ở độ cao thấp, chiếc Fw 190 tốt hơn đáng kể, một khám phá đã khiến người ta phải vội vã phát triển phiên bản Spitfire Mark IX trang bị kiểu động cơ mới Merlin 61 có siêu tăng áp hai tầng.

Những chiếc Fw 190 đã tham chiến với số lượng lớn lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 8 năm 1942, trong Trận tấn công Dieppe (Chiến dịch Jubilee). Các Không đoàn Tiêm kích (Jagdgeschwaders) JG 2 và JG 26 Đức không lâu trước đó đã được chuyển đổi từ những Bf 109 chiếc sang kiểu máy bay mới, đã đưa ra hoạt động 115 chiếc máy bay tiêm kích trong ngày hôm đó, bao gồm một số nhỏ những chiếc Bf 109 phiên bản G. Không quân Hoàng gia Anh đưa ra hoạt động trên 300 máy bay tiêm kích, đa số là những chiếc Spitfire Mk. V, và chỉ với sáu phi đội Spitfire Mk. IX, và cũng có một số chiếc Hawker Typhoon kiểu mới. Thêm vào đó, cũng có nhiều phi đội Hawker HurricaneP-51 Mustang của Không quân Hoàng gia thực hiện các nhiệm vụ tiêm kích-ném bom và trinh sát. Trong quá trình tác chiến, hai Jagdgeschwader bị thiệt hại 25 chiếc Fw 190 do mọi nguyên nhân bao gồm các tai nạn, nhưng đổi lại họ báo cáo đã bắn rơi được 106 máy bay Đồng Minh. Bị buộc phải chiến đấu bên trên bầu trời vùng đất bị chiếm đóng, Không quân Hoàng gia bị tổn thất 81 phi công và nhân viên phi hành bị giết hay bị bắt làm tù binh, trong khi Không quân Đức chỉ có 14 phi công bị giết. Trong trận chiến này, những chiếc Fw 190 cũng được sử dụng hiệu quả chống lại những tàu bè Đồng Minh như là những chiếc máy bay cường kích.[29]

Trên Mặt trận phía Đông chiếc Fw 190 được đưa vào hoạt động trước tiên cùng Không đoàn Tiêm kích 54 vào năm 1942. Kiểu Fw 190 không thể chiếm lĩnh được theo cách mà chúng từng thực hiện được tại phía Tây, chủ yếu là do "không đúng chỗ đúng lúc". Từ năm 1943, chiến thuật và ưu thế về số lượng thường nghiêng về phía Xô Viết, trong khi Không quân Đức mất đi nhiều phi công giỏi nhất của họ trong những năm 1941-1942 và đang trong thế phòng ngự chiến lược. Các đơn vị Fw 190 chịu đựng áp lực ngày càng tăng của số đông những chiếc máy bay tiêm kích Xô Viết kiểu Lavochkin La-5, Yakovlev Yak-9 và sau đó là Lavochkin La-7Yakovlev Yak-3.[30] Các liên đội Fw 190 gắn bó với chiến thuật đánh rồi chạy từng được chứng minh là có hiệu quả, né tránh mỗi khi có thể việc đối đầu trực tiếp hay lâm vào hoàn cảnh không có ưu thế về số lượng. Các chiến thuật này cũng được các phi công lái Bf 109 sử dụng, cho dù chiếc "the lean" (tên lóng phía Xô Viết đặt cho loạt máy bay Bf 109) được các phi công Xô Viết cho là một đối thủ nhanh nhẹn và có uy lực hơn so với kiểu Fw 190, vốn được xem là "nặng nề và chậm chạp".

Quy luật chung của các phi công Xô Viết trong những năm sau của cuộc chiến là tận dụng ưu thế về khả năng lượn vòng, gia tốc và tốc độ lên cao vượt trội hơn để buộc đối phương sa vào sự cơ động ngang hay dọc. Tương tự như vậy, những chiếc La-5FN sẵn sàng chấp nhận thử thách như là những chiếc máy bay tiêm kích "năng lượng hay khép góc" chống lại mọi chiếc Fw 190A, và như những chiếc máy bay tiêm kích "khép góc" chống lại những chiếc Fw 190 D, vốn được các phi công Xô Viết cho là một kiểu máy bay tiêm kích "cháy được" như những kiểu khác mà lại dễ bắn trúng hơn."[31]

Vào năm 1943, 1943, chiếc Fw 190 được trang bị cho các đơn vị chuyên biệt Jabo Staffeln của cả JG 2 và JG 26, thực hiện những cuộc tấn công ném bom ban đêm vào bờ biển phía Nam của nước Anh. Các thành công ban đầu nhanh chóng trở thành những thiệt hại ngày càng lớn và kết quả ném bom thất vọng do các cuộc ném bom bị phản công bởi khả năng hoạt động của những chiếc Hawker Typhoon ở tầm thấp. Các phiên bản tiêm kích-ném bom và tấn công mặt đất được đưa vào sử dụng với số lượng ngày càng gia tăng tại Mặt trận phía Đông trong suốt năm 1943, nhằm thay thế kiểu máy bay cường kích Junkers Ju 87 đã lạc hậu.

Do cường độ những cuộc ném bom ban ngày của Không lực Mỹ ngày càng gia tăng trong suốt năm 1943, chiếc Fw 190 trở thành máy bay tiêm kích "tiêu diệt máy bay ném bom" với vỏ giáp và vũ khí càng được tăng cường hơn nữa. Tính năng bay của kiểu máy bay này ở độ cao trên 20.000 ft suy giảm đáng kể, làm cho chiếc Fw 190 trở nên những mục tiêu càng mong manh hơn đối với những chiếc máy bay tiêm kích hộ tống của Đồng Minh.